Hưởng ứng ngày Dân số Thế giới (11/7/2025) - Quyền tự quyết về sinh sản trong một thế giới đang thay đổi
Ngày dân số Thế giới 11/7 năm nay mang chủ đề: “Quyền tự quyết về sinh sản trong một Thế giới đang thay đổi”. Đây là thông điệp chính thức được Văn phòng Quỹ Dân số Liên Hợp quốc tại Việt Nam công bố và được Bộ Y tế đưa vào Kế hoạch truyền thông dân số năm 2025 nhằm đẩy mạnh nhận thức cộng đồng về vai trò, quyền lợi và trách nhiệm trong vấn đề sinh sản.
Ngày dân số Thế giới là sáng kiến của Liên hợp quốc, được tổ chức hàng năm vào ngày 11/7, nhằm nâng cao nhận thức toàn cầu về các vấn đề liên quan đến dân số như tăng trưởng dân số, sức khỏe sinh sản, bình đẳng giới và phát triển bền vững. Ngày này được khởi xướng vào năm 1989 bởi Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc (UNDP), sau sự kiện dân số thế giới đạt mốc 5 tỷ người vào ngày 11/7/1987. Đây là dịp để các quốc gia cùng đánh giá, thúc đẩy những chính sách dân số hiệu quả, đảm bảo quyền sinh sản và chất lượng cuộc sống cho mọi người dân, đặc biệt là phụ nữ và thanh thiếu niên.
Vào năm 1994, tại Cairo, Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển, 179 quốc gia, trong đó có Việt Nam đã thông qua chương trình hành động với tầm nhìn sâu rộng trong lĩnh vực dân số và phát triển (ICPD). Các quốc gia đều đồng thuận với quan điểm cho rằng chúng ta cần đặt con người vào vị trí trung tâm và khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa dân số và phát triển. Việc lồng ghép đầy đủ các vấn đề dân số vào các chiến lược phát triển, vào công tác lập kế hoạch, ra các quyết định và phân bổ nguồn lực ở các cấp, vùng nhằm giải quyết hợp lý các chỉ tiêu dân số, bao gồm tỷ lệ tăng dân số, cơ cấu tuổi, mức sinh, mức chết, di cư... đều ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của phát triển con người, kinh tế - xã hội.
Tại Việt Nam, công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ năm 2007, nước ta bước vào thời kỳ dân số vàng. Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt. Tuổi thọ trung bình tăng nhanh, cao hơn nhiều nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người. Tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em giảm mạnh. Tầm vóc, thể lực người Việt Nam có bước cải thiện. Dân số đã có sự phân bố hợp lý hơn, gắn với quá trình đô thị hoá, công nghiệp hóa và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Công tác tuyên truyền, giáo dục, nhận thức về DS - KHHGĐ của các cấp, các ngành và toàn dân có bước đột phá.
Chất lượng dân số Việt Nam ngày càng được cải thiện, tuổi thọ trung bình ngày càng tăng lên. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đã tăng 33,7 năm từ 40 tuổi (1960) lên 74,7 (2023). So với năm 2019, tuổi thọ bình quân tính từ lúc sinh của Việt Nam đã tăng lên 1,1 năm sau giai đoạn 5 năm. Tầm vóc thể lực của người Việt Nam có bước cải thiện. Từ năm 1993 đến nay, chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam tăng thêm 6,6 cm, đạt 168,1 cm ở nam (2020) và 156,2 cm ở nữ.
Tuy nhiên, mức sinh trên toàn quốc có xu hướng giảm thấp dưới mức sinh thay thế và dự báo sẽ tiếp tục xuống thấp trong các năm tiếp theo. Tổng tỷ suất sinh năm 2024 là 1,91 con/phụ nữ, dưới mức sinh thay thế. Kể từ năm 2009 đến hết năm 2022, trong suốt gần 15 năm, mức sinh của Việt Nam giữ trạng thái tương đối ổn định xung quanh mức sinh thay thế. Tuy nhiên, trong 2 năm gần đây, 2023-2024, mức sinh của Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu giảm nhanh hơn. Theo dự báo, đến năm 2039, Việt Nam sẽ kết thúc thời kỳ dân số vàng, năm 2042 quy mô dân số trong độ tuổi lao động đạt đỉnh và sau năm 2054 dân số sẽ bắt đầu tăng trưởng âm. Hệ lụy của mức sinh thấp kéo dài sẽ dẫn đến thiếu hụt lực lượng lao động, suy giảm quy mô dân số, đẩy nhanh già hóa dân số, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội.
Theo đó, Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số vừa được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua tại phiên họp chiều 3/6 và có hiệu lực từ ngày 3/6/2025 nêu rõ mỗi cặp vợ chồng, cá nhân được quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh con phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khỏe, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con của cá nhân, cặp vợ chồng trên cơ sở bình đẳng. Quy định này nhằm khắc phục tình trạng chênh lệch mức sinh giữa các vùng, đối tượng, tránh để mức sinh giảm quá thấp, không đạt mức sinh thay thế - điều có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững về kinh tế, xã hội, an ninh và quốc phòng trong tương lai.
Thực hiện chính sách DS - KHHGĐ, tỉnh Hưng Yên ban hành nhiều văn bản quan trọng để chỉ đạo triển khai thực hiện công tác dân số thống nhất trên địa bàn tỉnh theo định hướng chung của cả nước, trong đó tác động đến tất cả các lĩnh vực về quy mô dân số, chất lượng dân số, cơ cấu dân số... Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, Ban chỉ đạo công tác dân số các cấp; sự phối hợp của các sở, ban, ngành và các tổ chức chính trị, xã hội đối với công tác dân số.
Để công tác DS - KHHGĐ phát triển bền vững trong thời gian tới, ngành Y tế tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các cấp uỷ đảng, chính quyền, huy động sự tham gia của toàn xã hội đối với công tác dân số; thực hiện chính sách về dân số. Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật về thực hiện công tác dân số theo Chương trình, kế hoạch hoạt động công tác dân số năm 2025 nhằm đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra; tăng cường phối hợp truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng trong đó tập trung vào các nội dung: Tuyên truyền, vận động cho các đối tượng là vị thành niên/thanh niên (VTN/TN), nam, nữ chuẩn bị kết hôn và mới kết hôn nâng cao nhận thức về lợi ích của việc sinh đủ 2 con, không kết hôn muộn và không sinh con muộn; công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản/kế hoạch hoá gia đình (SKSS/KHHGĐ); phòng tránh thai an toàn và các bệnh lây truyền qua đường tình dục; những nguy cơ, hệ lụy của việc mang thai ở tuổi vị thành niên; truyền thông nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ và trẻ em gái trong gia đình, cộng đồng và xã hội; Cung cấp các kiến thức về sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục cho các đối tượng là VTN/TN, người lao động tại các khu, cụm công nghiệp nhằm tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ góp phần giảm thiểu tình trạng mang thai ngoài ý muốn, đưa tỷ số giới tính khi sinh dần về mức cân bằng tự nhiên; thích ứng với già hóa dân số; phân bố dân số hợp lý, góp phần phát triển nhanh và bền vững.